tin tức

Sản phẩm chính của chúng tôi: Amino silicone, silicone khối, silicone ưa nước, tất cả các nhũ tương silicone, chất cải thiện độ bền ma sát khi ướt, chất chống thấm nước (không chứa flo, Carbon 6, Carbon 8), hóa chất giặt tẩy (ABS, Enzyme, chất bảo vệ Spandex, chất tẩy Mangan), Các nước xuất khẩu chính: Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia, Uzbekistan, v.v. Để biết thêm chi tiết, vui lòng liên hệ: Mandy +86 19856618619 (Whatsapp)

Cùng với sự cải thiện mức sống của con người, nhu cầu của người tiêu dùng đối với thực phẩm không chỉ giới hạn ở giá trị dinh dưỡng hợp lý mà còn yêu cầu thực phẩm phải có chất lượng đạt yêu cầu về các đặc tính cảm quan như hình thức, màu sắc, mùi thơm, mùi vị, độ nhớt, độ tươi, v.v.

Chất nhũ hóa, là phụ gia thực phẩm dùng để điều hòa, đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp thực phẩm. Hãy cùng tìm hiểu cơ chế hoạt động của chất nhũ hóa!

Nhũ tương

Nhũ tương phổ biến trong thực phẩm bao gồm nước hoặc dung dịch nước, được gọi chung là pha ưa nước; pha còn lại là pha hữu cơ không hòa tan với nước, còn được gọi là pha ưa mỡ. Hai chất lỏng không hòa tan, chẳng hạn như nước và dầu, khi trộn lẫn có thể tạo thành hai loại nhũ tương: nhũ tương nước trong dầu (O/W) và nhũ tương nước trong dầu (W/O).

Trong nhũ tương nước trong dầu, dầu được phân tán thành những hạt nhỏ li ti trong nước, với các hạt dầu là pha phân tán và nước là môi trường phân tán. Ví dụ, sữa bò là nhũ tương O/W; trong nhũ tương nước trong dầu, điều ngược lại xảy ra. Nước được phân tán thành những hạt nhỏ li ti trong dầu, với nước là pha phân tán và dầu là môi trường phân tán. Ví dụ, bơ nhân tạo là một loại nhũ tương W/O.

Cơ chế hoạt động của chất nhũ hóa

Chất nhũ hóa thực phẩm, còn được gọi là chất hoạt động bề mặt, là những chất chuyển đổi chất lỏng không hòa tan thành các pha phân tán đồng đều (nhũ tương). Khi được thêm vào thực phẩm, chúng có thể làm giảm đáng kể sức căng bề mặt giữa dầu và nước, cho phép dầu không hòa tan (chất kỵ nước) và nước (chất ưa nước) tạo thành nhũ tương ổn định như một chất phụ gia thực phẩm.

Một mặt, chất nhũ hóa tạo thành một lớp phân tử mỏng trên bề mặt pha đẩy lẫn nhau, làm giảm năng lượng tự do bề mặt của toàn bộ hệ thống và hình thành các giao diện mới. Các phân tử chất nhũ hóa có các nhóm chức ưa nước và ưa dầu, có thể hấp phụ trên bề mặt pha đẩy lẫn nhau của dầu và nước, tạo thành một lớp phân tử mỏng và làm giảm sức căng giao diện giữa hai pha. Nghĩa là, phần ưa dầu của phân tử dầu và chất nhũ hóa nằm ở một bên, còn phần ưa nước của phân tử nước và chất nhũ hóa nằm ở phía bên kia. Sự tương tác giữa hai chất này gây ra sự thay đổi sức căng giao diện;

Mặt khác, bằng cách hình thành một lớp hấp phụ bảo vệ trên bề mặt giọt, nó mang lại cho giọt độ ổn định không gian mạnh mẽ. Càng thêm nhiều chất nhũ hóa, sức căng bề mặt càng giảm. Điều này cho phép các chất trước đây không hòa tan được trộn đều, tạo thành một hệ phân tán đồng nhất, làm thay đổi trạng thái vật lý ban đầu, từ đó cải thiện cấu trúc bên trong của thực phẩm và nâng cao chất lượng.
Giá trị cân bằng ưa nước và ưa dầu

Nhìn chung, chất nhũ hóa có tính ưa nước mạnh tạo thành nhũ tương dầu/nước, trong khi chất nhũ hóa có tính ưa nước mạnh tạo thành nhũ tương nước/dầu. Để biểu thị sự cân bằng ưa nước và ưa dầu của chất nhũ hóa, giá trị HLB (giá trị cân bằng ưa nước và ưa dầu) thường được sử dụng, và giá trị HLB được sử dụng để biểu thị tính ưa nước của chất nhũ hóa. Có nhiều phương pháp tính toán giá trị HLB khác nhau.

Công thức hiệu số: HLB=độ ưa nước của nhóm ưa nước - độ kỵ nước của nhóm ưa dầu

Công thức tỷ lệ: HLB=độ ưa nước của nhóm ưa nước/độ kỵ nước của nhóm ưa dầu

Giá trị HLB của mỗi chất nhũ hóa có thể được xác định bằng phương pháp thực nghiệm. Đối với chất nhũ hóa có 100% tính ưa dầu, HLB của chúng là 0 (biểu thị bằng sáp parafin), và đối với chất nhũ hóa có 100% tính ưa nước, HLB của chúng là 20 (biểu thị bằng kali oleat), được chia thành 20 phần bằng nhau để biểu thị cường độ tính ưa nước và tính ưa dầu của chúng. Giá trị HLB càng lớn thì tính ưa nước càng mạnh, và giá trị HLB càng nhỏ thì tính ưa dầu càng mạnh.

Phần lớn chất nhũ hóa ăn được là chất hoạt động bề mặt không ion với giá trị HLB từ 0 đến 20. Các giá trị HLB khác nhau và các đặc tính liên quan của chất nhũ hóa không ion được thể hiện trong bảng; Giá trị HLB của chất hoạt động bề mặt ion là 0-40. Do đó, chất nhũ hóa có giá trị HLB <10 chủ yếu là chất ưa dầu, trong khi chất nhũ hóa có giá trị HLB ≥ 10 có đặc tính ưa nước.

Đối với chất nhũ hóa hỗn hợp, giá trị HLB của chúng có tính chất cộng gộp. Do đó, khi trộn và sử dụng hai hoặc nhiều chất nhũ hóa, giá trị HLB của chất nhũ hóa hỗn hợp có thể được tính toán dựa trên phần khối lượng của từng chất nhũ hóa trong thành phần của nó:

HLBa,b =HLBa·A%+HLBb·B%

Trong công thức,

HLBa, b là giá trị HLB của chất nhũ hóa a, b được trộn lẫn với nhau;

HLBa và HLBb lần lượt là giá trị HLB của chất nhũ hóa a và b;

A% và B% lần lượt là tỷ lệ phần trăm hàm lượng của a và b trong chất nhũ hóa hỗn hợp (công thức này chỉ áp dụng cho chất nhũ hóa không ion).
Phương pháp điều chế và các yếu tố ảnh hưởng đến chất nhũ hóa

Có bốn phương pháp để điều chế chất nhũ hóa, đó là phương pháp gel khô, phương pháp gel ướt, phương pháp trộn pha dầu-nước và phương pháp cơ học.

Phương pháp gel khô, bao gồm việc thêm nước vào pha dầu có chứa chất nhũ hóa. Trong quá trình chuẩn bị, bột cao su (chất nhũ hóa) trước tiên được trộn đều với dầu, sau đó thêm một lượng nước nhất định, nghiền và nhũ hóa thành sữa non, rồi pha loãng với nước đến khi đủ lượng.

Phương pháp gel ướt, bao gồm việc thêm dầu vào pha nước có chứa chất nhũ hóa. Trong quá trình chuẩn bị, gel (chất nhũ hóa) trước tiên được hòa tan trong nước để tạo thành hỗn hợp sệt như pha nước. Sau đó, pha dầu được thêm vào pha nước theo từng giai đoạn, nghiền thành sữa non, và thêm nước cho đến khi đạt đủ lượng cần thiết.

Trộn đều pha dầu và pha nước rồi cho vào chất nhũ hóa, trộn đều một lượng dầu và nước nhất định. Nghiền gôm Ả Rập trong cối, sau đó nhanh chóng nghiền hỗn hợp dầu-nước thành sữa non và pha loãng với nước.

Quá trình tạo chất nhũ hóa chủ yếu liên quan đến việc nhũ hóa hai chất lỏng và chất lượng nhũ hóa có tác động đáng kể đến chất lượng của nhũ tương.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nhũ hóa chủ yếu bao gồm sức căng bề mặt, độ nhớt và nhiệt độ, thời gian nhũ hóa và lượng chất nhũ hóa sử dụng. Chất nhũ hóa thường được lựa chọn có khả năng làm giảm đáng kể sức căng bề mặt; Nhiệt độ nhũ hóa thích hợp nhất cho chất nhũ hóa là khoảng 70℃. Nếu sử dụng chất hoạt động bề mặt không ion làm chất nhũ hóa, nhiệt độ nhũ hóa không được vượt quá nhiệt độ đỉnh của chất nhũ hóa; Sử dụng càng nhiều chất nhũ hóa, nhũ tương hình thành càng ổn định.

#Nhà sản xuất hóa chất#

#Phụ gia dệt may#

#Hóa chất dệt may#

#chất làm mềm silicone#

#nhà sản xuất silicone#


Thời gian đăng: 04-11-2024